Các mặt trận Chiến_tranh_Sáu_Ngày

Israel không kích phủ đầu

Hoạt động quân sự đầu tiên, và cũng là hoạt động quyết định của Israel là đòn đánh phủ đầu vào không quân Ai Cập. Lúc 7:45 sáng ngày 5 tháng 6, khi còi báo động vang lên trên toàn Israel cũng là lúc không quân Israel (IAF) mở chiến dịch Moked. Ngoại trừ 12 máy bay ở lại để bảo vệ không phận, còn lại tất cả 183 chiếc máy bay phản lực[33] cất cánh rời Israel ào ạt tấn công các sân bay của Ai Cập.[34] Trọng tâm của kế hoạch là thực hiện những cuộc tập kích bất ngờ vào các sân bay quân sự của quân Ả Rập bằng các đội hình nhỏ, ném bom đường băng và sau đó phá hủy các máy bay đang đậu trên mặt đất. Chiến tranh 6 ngày chính thức bắt đầu.

Ai Cập có không quân lớn và hiện đại nhất trong số các quốc gia A Rập, với khoảng 450 máy bay chiến đấu của Liên Xô, với nhiều máy bay MiG-21 hiện đại bậc nhất lúc đó. Ban đầu, cả Ai Cập và Israel đều tuyên bố bị bên kia tấn công trước.[35][36][37][38]

Phía Israel đặc biệt quan tâm đến 30 máy bay ném bom tầm trung Tu-16 "Badger", có khả năng đánh phá nghiêm trọng các trung tâm dân sự và quân sự của Israel.[39]

Máy bay của Israel bay vòng ra Địa Trung Hải trước khi vòng lại hướng về Ai Cập. Các phi đội Israel bay sát mặt biển, và hoàn toàn không dùng radio nhằm tránh bị radar đối phương phát hiện, sau đó ngoặt lại về phía nam để xâm nhập không phận Ai Cập. Hành trình từ Israel đến các mục tiêu kéo dài khoảng 45 phút. Một đài radar của Jordan đã phát hiện được các phi đội Israel và gửi tin cảnh báo cho Ai Cập. Tuy nhiên bức điện này được mã hóa và Ai Cập không thể giải mã do vừa đổi mật mã ngày hôm trước.

Các cơ sở phòng không của Ai Cập được chuẩn bị phòng thủ rất kém, không có sân bay nào được trang bị bong-ke bọc thép để bảo vệ máy bay. Không quân Ai Cập cũng rất chủ quan, máy bay của họ đậu sát nhau dọc theo đường băng, không hề có biện pháp nào để ngụy trang, phân tán lực lượng. Điều này càng khiến cho máy bay Israel dễ dàng trong việc không kích.

Phía Ai Cập cũng tự làm hại mình bằng cách tắt toàn bộ hệ thống phòng không của họ, vì họ sợ lực lượng nổi dậy Ai Cập có thể bắn hạ máy bay chở Nguyên soái chiến trường Amer và Trung tướng Sidqi Mahmoud, đang trên đường từ al Maza tới Bir Tamada ở Sinai để gặp các chỉ huy tại đó. Dù thế nào đi chăng nữa thì việc đó cũng không làm tình hình thay đổi mấy, vì các phi công Israel bay rất thấp để tránh radar và bay dưới tầm mà tên lửa phòng không SA-2 có thể bắn được họ.[40]

Càng xui xẻo cho Ai Cập khi sáng hôm đó cả phó Tổng thống, nguyên soái Abdel Hakim Amer, bộ trưởng Bộ quốc phòng Shams Badran và nhiều sĩ quan cao cấp khác lại có chuyến thị sát đến Sinai. Bộ trưởng Badran nhớ lại sự bất ngờ của các lãnh đạo Ai Cập lúc đó: “Chúng tôi nhận được tin về các vụ không kích của Israel 10 phút sau khi cất cánh. Chúng tôi ngay lập tức bay trở lại Cairo. Nhưng đoàn xe vừa rời đi nên chúng tôi phải bắt taxi để quay về sở chỉ huy”.

Các phi công Israel phối hợp nhiều chiến thuật cùng lúc: ném bom và dùng hỏa lực oanh tạc các máy bay đang đậu trên đường băng, ném bom xuyên phá đường băng để máy bay Ai Cập không cất cánh được nữa, làm mồi ngon cho đợt không kích tiếp theo của máy bay Israel. Cuộc không kích thành công vượt mức, khiến quân Ai Cập hoàn toàn bị bất ngờ, phá hủy gần như toàn bộ không quân Ai Cập ngay trên mặt đất mà chỉ bị rất ít tổn thất. Hơn 300 máy bay Ai Cập bị phá hủy, hơn 100 phi công Ai Cập chết.[41] Trong số máy bay bị phá hủy là tất cả các 30 máy bay Tu-16, 27 trong tổng số 40 máy bay ném bom Il-28, 12 chiến đấu cơ-máy bay ném bom Su-7, hơn 90 MiG-21, 20 MiG-19, 25 MiG-17 chiến đấu cơ, cùng 32 máy bay vận tải các loại và phi cơ. Phía Israel mất 19 máy bay, phần lớn do trục trặc kỹ thuật, hay tai nạn... Cuộc không kích mang lại cho Israel ưu thế áp đảo trên không cho đến hết cuộc chiến.

Tiếp theo thành công của đợt không tập đầu tiên đánh vào quân Ai Cập, không quân Israel chiều hôm đó chuyển sang đánh các sân bay thứ yếu ở Ai Cập cũng như bắt đầu tấn công không lực Jordan, Syria, và Iraq, tiêu diệt hầu hết không quân các nước này. Tới tối, không quân Jordan gần như bị xóa sổ, mất hơn 20 máy bay chiến đấu Hunter, 6 máy bay vận tải và 2 máy bay trực thăng. Không quân Syria mất 32 MiG-21, 23 MiG-15MiG 17, 2 máy bay ném bom Ilyushin Il-28. Một số máy bay của Iraq cũng bị phá hủy tại sân bay H3 ở tây Iraq, gồm 12 trên tổng số 20 MiG-21, 2 MiG-17, 5 Hunter F6, và 3 Il-28. Một máy bay ném bom Tu-16 của Iraq bị bắn hạ trong ngày bởi hỏa lực phòng không Israel khi nó định ném bom Tel Aviv. Sáng ngày 6 tháng 6 năm 1967, một máy bay Hunter của Liban, trong tổng số 12 chiếc mà họ có, bị bắn rơi tại biên giới hai nước.[42]

Tới tối, Israel cho biết họ đã phá hủy 416 máy bay của phe A Rập, trong khi mất 26 máy bay trong hai ngày đầu chiến sự. Israel mất 6 trong số 72 chiến đấu cơ Mirage IIIC/J, 4 trong số 24 chiến đấu cơ Super Mystère, 8 trong số 60 Mystère IVA, 4 trong số 40 Ouragan, 5 trong số 25 máy bay ném bom tầm trung Vautour II. Số máy bay A Rập mà Israel tuyên bố phá hủy lúc đầu bị báo chí phương Tây tưởng là đã bị "phóng đại". Tuy nhiên, thực tế là không lực Ai Cập, Jordan, và các quốc gia A Rập khác hầu như vắng bóng trong những ngày tiếp theo của cuộc chiến chứng tỏ là con số tổn thất này có lẽ là xác thực. Trong suốt cuộc chiến, phi cơ của Israel tiếp tục bắn phá đường băng để ngăn phe địch đưa chúng vào hoạt động trở lại. Cùng lúc, đài phát thanh của chính phủ Ai Cập thì tuyên bố Ai Cập chiến thắng, tung tin giả là 70 máy bay Israel bị hạ chỉ trong ngày đầu giao chiến.[14]

Dải Gaza và Bán đảo Sinai

Đánh chiếm Sinai, 7 tháng 6-8 tháng 6, 1967"Quân Ai Cập bị phong tỏa do cuộc đột kích trong ngày 5-6 tháng 6, chỉ có thể chống cự yếu ớt trừ ở những điểm được đánh dấu. Các đội quân quá hỗn loạn để phân biệt chính xác."

Quân Ai Cập có bảy sư đoàn, gồm 4 sư đoàn xe bọc thép, hai sư đoàn bộ binh, một sư đoàn bộ binh cơ giới, tổng cộng khoảng 100 ngàn quân, 900-950 xe tăng, hỗ trợ bởi 1.100 xe bọc thép chở quân (APC) và 1.000 khẩu pháo.[43] Quân Ai Cập bố trí theo học thuyết quân sự của Liên Xô, với lực lượng xe tăng và xe thiết giáp cơ động bố trí tại những vị trí chiến lược có chiều sâu, phòng thủ cơ động, trong khi bộ binh giao chiến tại những vị trí cố thủ của mình. Tuy vậy, quân đội Ai Cập tỏ ra thiếu tinh thần chiến đấu và có kỷ luật không tốt, trong khi các tướng lĩnh dễ dao động.

Quân Israel tập trung dọc biên giới với Ai Cập có 6 lữ đoàn xe bọc thép, một lữ đoàn bộ binh, một lữ đoàn bộ binh cơ giới, 3 lữ đoàn dù, 700 xe tăng, tổng cộng là 70 ngàn quân, chia thành 3 sư đoàn xe tăng - thiết giáp (1 sư đoàn tăng - thiết giáp còn lại phụ trách chiến trường với Jordan và Syria). Về cơ cấu tổ chức, một lữ đoàn thiết giáp của Israel bao gồm 2 tiểu đoàn xe tăng, mỗi tiểu đoàn được trang bị 50 xe tăng, và ít nhất 1 tiểu đoàn bộ binh cơ giới. Những lữ đoàn này được kết hợp với các lữ đoàn cơ giới hoặc bộ binh để tạo thành các đơn vị cấp sư đoàn.

Kế hoạch của Israel là gây bất ngờ cho quân Ai Cập cả về thời gian (tấn công cùng lúc không quân đánh vào các sân bay Ai Cập), lẫn địa điểm (tấn công theo hướng bắc và trung Sinai, chứ không như người Ai Cập tưởng họ sẽ lặp lại chiến thuật năm 1956, sử dụng đường tấn công phía nam và trung), cũng như phương thức (hợp đồng binh chủng đánh tạt sườn, thay vì đánh trực diện bằng xe tăng).

Tướng Sharon quyết định giành thế chủ động, lên kế hoạch kỹ càng, phối hợp tác chiến và tiến hành tấn công. Ông đưa hai lữ đoàn về phía bắc Um-Katef, một để chọc thủng hệ thống phòng thủ tại Abu-Ageila về phía nam, và một để chặn đường về El-Arish và để bao vây Abu-Ageila từ phía đông. Cùng lúc, quân dù được trực thăng chuyển quân về phía sau tuyến phòng thủ, tiêu diệt pháo binh nhằm ngăn chặn chúng bắn phá xe tăng và bộ binh Israel. Quân Israel hợp đồng binh chủng gồm xe tăng, pháo binh, bộ binh, lính dù và công binh tiến công quân Ai Cập từ mọi hướng, cắt rời quân Ai Cập. Trận chiến có tính chất bước ngoặt này diễn ra liên tục trong ba ngày rưỡi cho tới khi Abu-Ageila thất thủ.

Đến lúc này, tình hình vẫn chưa quá xấu đối với Ai Cập. Tại Sinai, nhiều đơn vị quân Ai Cập vẫn còn nguyên vẹn, và họ có thể giao chiến hoặc lập các tuyến phòng thủ để chặn quân Israel tiến về Kênh đào Suez. Tuy nhiên khi Bộ trưởng quốc phòng Ai Cập, nguyên soái Abdel Hakim Amer, nghe tin Abu-Ageila thất thủ, ông ta trở nên hoảng sợ. Thay vì đợi bộ tham mưu chuẩn bị kế hoạch tác chiến hoặc rút lui có trật tự, Amer tự mình liên lạc với các chỉ huy và hạ lệnh cho tất cả các đơn vị tại Sinai rút lui ngay.

Lệnh rút lui được đưa ra vội vã mà không đi kèm các phương án bọc hậu và lý do trấn an, nó đã gây ra tai họa lớn: binh lính Ai Cập thấy toàn bộ mặt trận nhận lệnh tháo lui cùng lúc, nên họ nghĩ rằng đối phương chắc hẳn đang thắng áp đảo (dù thực ra, ưu thế quân số đang thuộc về Ai Cập và quân Israel vẫn chưa tiến được xa). Không có kế hoạch tổng thể, các đơn vị Ai Cập rút lui trong hỗn loạn, họ không có các đơn vị chặn hậu yểm trợ và cũng không thể hỗ trợ lẫn nhau. Trong điều kiện liên tục bị Israel công kích từ trên không, lính Ai Cập đã nhanh chóng trở nên hoảng loạn, mất hết tinh thần chiến đấu. Họ vứt bỏ hàng loạt các vũ khí hạng nặng còn nguyên vẹn để rút chạy một cách vô tổ chức.

Vì quân Ai Cập rút chạy vô tổ chức, nên Bộ chỉ huy Israel quyết định không truy kích, thay vì đó đuổi vượt lên chiếm các con đèo ở Tây Sinai để rồi chặn đánh khi quân Ai Cập chạy qua. Vì vậy, trong hai ngày 6 và 7, cả ba sư đoàn của Israel cấp tốc tiến về phía tây. Sư đoàn của Sharon thoạt đầu hướng về phía nam, rồi rẽ sang hướng tây về phía đèo Mitla. Tiếp đó là các thành phần sư đoàn của tướng Yoffe, trong khi các đơn vị khác của sư đoàn này chặn đèo Gidi. Các đơn vị thuộc sư đoàn tướng Tal dừng lại tại nhiều vị trí khác nhau dọc theo Kênh Suez.

Quân Israel chỉ phần nào thành công khi tìm cách chặn đánh quân Ai Cập, vì họ chỉ chiếm được đèo Gidi trước khi quân Ai Cập chạy qua, còn tại các con đèo khác, quân Ai Cập đều chạy đến trước và băng qua kênh Suez an toàn. Dù vậy, trong bốn ngày giao chiến, Israel cũng đã đánh bại đạo quân lớn nhất, trang bị mạnh nhất của người A Rập.

Các dàn tên lửa SAM-2 của Ai Cập vứt lại trên sa mạc Sinai bị quân đội Israel thu giữ

Quân Ai Cập rút chạy quá vội vã và vô tổ chức, nên họ vứt bỏ lại sau lưng vô số xe cộ và vũ khí trên bán đảo Sinai. Hàng trăm đại bác, hàng chục hệ thống tên lửa bị vứt bỏ lại nguyên vẹn mà chưa hề bắn một phát đạn nào. Hàng trăm xe tăng còn đầy đủ đạn dược và xăng dầu, hàng trăm đại bác vẫn sẵn sàng nhả đạn, nhưng binh sỹ đã bỏ chạy nên chẳng còn ai để vận hành. Ai Cập có từ 10.000 đến 15.000 binh sĩ thương vong, 5.000 bị bắt làm tù binh. Trong số 935 xe tăng và pháo tự hành Ai Cập đóng ở Sinai, họ đã mất 820 xe (291 T-54, 82 T-55, 251 T-34-85, 72 IS-3M, 29 PT-76, 51 chiếc SU-100 và 50 M4 Sherman), chưa kể một số lượng lớn các xe bọc thép khác. Trong số các xe tăng bị mất, một số lượng lớn vẫn còn nguyên vẹn (do lính Ai Cập bỏ xe để chạy trốn) và đã rơi vào tay Quân đội Israel. Chiến lợi phẩm nhiều đến mức mà mặc dù không có các phụ tùng Xô Viết để thay thế, người Do Thái đã đưa chúng vào trang bị cho các đơn vị quân đội (trong đó có 81 T-54 và 49 T-55), chỉ thay động cơ và vũ khí của Phương Tây. Còn về phía mình, Israel mất trên bán đảo Sinai 122 xe tăng – ít hơn nhiều so với số xe tăng chiến lợi phẩm thu được.

Cùng với số lượng lớn xe tăng thiết giáp, quân Israel cũng thu được hơn 20 hệ thống tên lửa phòng không hiện đại SAM-2 bị quân Ai Cập bỏ lại. Khoảng 430 đại bác, 50 pháo tự hành, 10.000 xe tải các loại cũng bị phá hủy hoặc rơi vào tay Israel[2].

Ngày 8 tháng 6, Israel hoàn thành việc chiếm đóng Sinai bằng cách đưa hai đơn vị bộ binh tới Ras-Sudar trên bờ bắc của bán đảo này. Thị trấn Sharm El-Sheikh tại mũi phía nam cũng rơi vào tay các toán quân của Hải quân Israel vào ngày hôm trước.

Những nhân tố góp vào chiến thắng chớp nhoáng của Israel bao gồm: một là việc không quân Israel làm chủ bầu trời; hai là quyết tâm áp dụng kế hoạch tấn công đầy sáng tạo; thứ ba là hàng loạt sai lầm mang tính chiến lược từ phía chỉ huy Ai Cập và thứ tư là tinh thần chiến đấu kém của binh sĩ Ai Cập. Đánh bại quân Ai Cập nhanh chóng cũng là nhân tố quyết định chiến thắng của Israel trên các mặt trận khác.

Bờ Tây

Mặt trận Jordan, 5-7 tháng 6

Jordan tham chiến miễn cưỡng, người ta cho rằng Tổng thống Ai Cập Nasser tung hỏa mù trong những giờ đầu cuộc chiến để thuyết phục vua Hussein là phe mình đang giành thắng lợi; ông tuyên bố các máy bay Israel mà radar nhìn thấy quay về là các máy bay Ai Cập trên đường không kích Israel.[44] Một lữ đoàn quân Jordan đóng tại Bờ Tây được điều đến Hebron để hội quân với Ai Cập. Vua Hussein quyết định tham chiến.

Trước chiến tranh, quân Jordan có 11 lữ đoàn, trang bị 300 xe tăng hiện đại của phương Tây. Có 9 lữ đoàn đóng ở Bờ Tây, gồm 45 ngàn quân, 270 xe tăng, 200 trọng pháo, với cả các trung đoàn bọc thép tinh nhuệ số 40 và 2 tại thung lũng Jordan. Lữ đoàn A Rập của quân Jordan là một lữ đoàn nhà nghề, thiện chiến được trang bị và huấn luyện rất tốt. Không quân hoàng gia Jordan có 24 máy bay chiến đấu Hunter, chất lượng tương đương với máy bay Dassault Mirage III - máy bay tốt nhất của không lực Israel.[45]

Để đối lại, Israel có 40 ngàn quân và 200 xe tăng (chia làm 8 lữ đoàn).[46] Chủ lực của Israel tại chiến trường này là sư đoàn thiết giáp 36, gồm 1 lữ đoàn bộ binh và 2 lữ đoàn thiết giáp. Bộ chỉ huy Trung tâm của Israel gồm 5 lữ đoàn. Hai lữ đoàn đầu tiên đóng thường trực gần Jerusalem, gọi là lữ đoàn Jerusalem và lữ đoàn cơ giới Harel. Lữ đoàn dù 55 của tướng Mordechai Gur được điều về từ mặt trận Sinai. Một lữ đoàn bọc thép từ Bộ Tổng chỉ huy đóng vai trò lực lượng dự bị, hướng về Ramallah để đánh chiếm Latrun. Lữ đoàn bọc thép số 10 đóng ở phía bắc vùng Bờ Tây. Bộ chỉ huy Phía bắc của Israel có một sự đoàn (gồm 3 lữ đoàn), chỉ huy bởi tướng Elad Peled, đóng ở thung lũng Jezreel, phía bắc vùng Bờ Tây.

Phía Israel dự định phòng ngự thụ động ở mặt trận này, để dồn sức cho mặt trận chính tại bán đảo Sinai. Tuy nhiên, này 5 tháng 6, quân Jordan bắt đầu pháo kích tây Jerusalem, Netanya, và ngoại vi Tel Aviv.Ngày 5 tháng 6, Israel gửi điện cho vua Hussein đề nghị ngưng bắn, nhưng vua Hussein trả lời mọi việc đã quá trễ. Mặc dù bị pháo kích, nhưng ban đầu quân Israel không có bất kỳ hoạt động nào đáp trả.[47] Không quân hoàng gia Jordan cũng tấn công các sân bay Israeli.

Ngày 6 tháng 6, quân Israel vội vã gom nhặt các toán quân còn lại tung vào trận chiến Bờ Tây để ngăn chặn quân Jordan. Chiều cùng ngày, không quân Israel (IAF) công kích và tiêu diệt Không quân hoàng gia Jordan. Tới tối, lữ đoàn bộ binh Jerusalem tiến về phía nam Jerusalem, trong khi quân dù các lữ đoàn Harel và Gur vây thành phố từ phía bắc. Lữ đoàn dù dự bị hoàn thành hợp vây Jerusalem sau trận chiến đẫm máu Ammunition Hill. E ngại các khu vực linh thiêng có thể bị hư hại và không muốn chiến đấu trong thành phố, tướng Dayan hạ lệnh cho binh sĩ của mình không tiến vào thành phố.[48]

Ngày 7 tháng 6, giao tranh khốc liệt tiếp diễn, lữ đoàn bộ binh tấn công pháo đài Latrun và hạ được nó lúc tảng sáng, tiến quân xuyên qua Beit Horon về Ramallah. Lữ đoàn Harel tiếp túc đánh về phía đồi núi ở tây bắc Jerusalem, nối liền khu Mount Scopus của trường đại học Hebrew với thành phố Jerusalem. Tới tối, lữ đoàn đã đánh tới Ramallah. Không quân Israel phát hiện và tiêu diệt lữ đoàn 60 Jordan khi nó đang trên đường tiếp viện cho Jerusalem từ Jericho.

Ở phía bắc, một tiểu đoàn từ sư đoàn của tướng Peled được lệnh kiểm soát hoạt động hệ thống phòng thủ của quân Jordan tại thung lũng Jordan. Một lữ đoàn cũng thuộc sư đoàn này đánh chiếm miền tây của khu Bờ Tây, một lữ đoàn khác đánh Jenin và lữ đoàn thứ ba (trang bị bằng xe tăng hạng nhẹ AMX-13 của Pháp) giao chiến với xe tăng hạng nặng M48 Patton của quân Jordan về phía đông.

Tướng Dayan hạ lệnh cho binh sĩ của mình không được tiến vào Jerusalem; tuy nhiên, sau khi nghe thông báo LHQ chuẩn bị tuyên bố ngưng bắn, ông thay đổi ý định, và không cần chờ Quốc hội cho phép, hạ lệnh đánh chiếm thành phố.[49] Quân dù của Lữ đoàn Gur tiến vào Thành cổ Jerusalem qua Cổng Sư tử, đánh chiếm Bức tường than thởNúi Đền. Lữ đoàn Jerusalem tiếp đó tới tăng viện cho họ, rồi tiến về hướng nam, đánh chiếm Judea, Gush EtzionHebron. Lữ đoàn Harel hành tiến về phía đông, đổ xuống sông River. Ở Bờ Tây, một lữ đoàn của tướng Peled hạ được Nablus; rồi nó được hợp với một lữ đoàn bọc thép thuộc Bộ chỉ huy trung ương đánh với quân Jordan trang bị mạnh hơn, và đông ngang với quân Israel.

Một lần nữa, ưu thế không lực của Israel đóng vai trò quyết định, làm đối phương tê liệt, dẫn đến thất bại. Một lữ đoàn của tướng Peled hợp với một lữ đoàn khác thuộc Bộ chỉ huy trung ương từ Ramallah, hai lữ đoàn khác thì chặn các ngả vượt sông Jordan cùng với Trung đoàn số 10 của Bộ chỉ huy trung ương (đơn vị này đã vượt sông sang tận Bờ Đông để hộ tống cho công binh Israel phá cầu, nhưng nhanh chóng rút về dưới sức ép của Mỹ).

Thực tế là phía Israel không hề chuẩn bị để đánh chiếm lãnh thổ từ tay Jordan. Sau khi Thành Cổ Jerusalem bị chiếm, tướng Dayan hạ lệnh cho binh sĩ đào công sự chuẩn bị phòng ngự thành phố. Khi một chỉ huy lữ đoàn thiết giáp tự tiến vào Bờ Tây, và cho biết từ đây có thể nhìn thấy thị trấn Jericho, Dayan hạ lệnh cho ông này phải quay lại. Chỉ sau khi tin tức tình báo cho thấy vua Hussein rút quân qua sông, tướng Dayan mới quyết định đánh chiếm vùng Bờ Tây.[50] Theo Narkis:

Một là, chính phủ Israel không có ý định chiếm vùng Bờ Tây. Không những thế, họ còn phản đối ý tưởng đó. Hai là, quân đội Israel không có bất kỳ hoạt động gây hấn nào. Ba là, họ chỉ tung quân ra khi mối đe dọa an ninh cho Jerusalem đã hiển hiện. Đó là những gì đã diễn ra trên thực tế ngày 5 tháng 6, dù rằng điều đó rất khó tin. Những gì diễn ra không hề được tính đến từ trước.[51]

Đây là mặt trận mà Israel phải đối phó với một đối phương gần tương đương về tinh thần quyết tâm và mức độ huấn luyện. Jordan mất hầu như toàn bộ 2 lữ đoàn thiết giáp của mình, với 179 xe tăng bị phá hủy. Nhưng ngược lại, phía Israel cũng chịu thiệt hại nặng, với 112 xe tăng bị loại khỏi vòng chiến. Các hoạt động tác chiến tại đây kết thúc ngày 7/6, Quân Jordany bị đánh bật sang bên kia sông Jordan. Người Israel lấy được vùng Latrun và Khu phố cổ tại Jerusalem.

Chiến sự trên Cao nguyên Golan

Chiến sự trên Cao nguyên Golan, 9-10 tháng 6

Tin tức sai lệch rằng quân Ai Cập chiến thắng, đánh tan nát quân Israel[14] và dự đoán là pháo binh Ai Cập chẳng mấy chốc sẽ nã vào Tel-Aviv đã kích thích Syria tham chiến. Lãnh đạo Syria tuy vậy hành động thận trọng hơn, cho bắt đầu bằng cách pháo kích miền bắc Israel. Khi không lực Israel hoàn tất đánh phá Ai Cập, và chuyển hướng tấn công không quân Syria, Syria hiểu rằng thông tin mà họ nhận được từ phía Ai Cập không phải là tin thật.[52] Tối ngày 5 tháng 6, các cuộc không kích của Israel đã phá hủy hai phần ba không quân Syria, và buộc số còn lại phải di tản về các sân bay ở xa, nên không đóng vai trò gì trong các trận chiến sắp tới. Một lực lượng nhỏ quân Syria định chiếm nhà máy nước Tel Dan, nhưng vài xe tăng Syria bị chìm trên sông Jordan. Từ nay, bộ chỉ huy Syria phải từ bỏ hy vọng tấn công trên bộ, thay vào đó bắn phá dữ dội các thị trấn trong thung lũng Hula của Israel.

Quân Syria có 75.000 người, chia làm 9 lữ đoàn, hỗ trợ bởi xe tăng và pháo binh. Chủ lực phía Syria gồm 2 lữ đoàn thiết giáp 14 và 44 trong thế trận phòng ngự, với đa số xe tăng được giấu ở trong công sự, chỉ chừa phần tháp pháo bên trên mặt đất.

Lực lượng xung kích của Israel bao gồm 2 lữ đoàn (một lữ đoàn bọc thép của tướng Albert Mandlerlữ đoàn Golan) ở phần phía bắc mặt trận, 2 lữ đoàn (một bộ binh và một của tướng Peled được gọi đến từ Jenin) ở trung tâm. Đến ngày 9/6, Israel đã điều động 3 lữ đoàn thiết giáp từ các mặt trận khác về phía biên giới với Syria.

Địa hình đặc biệt của Cao nguyên Golan (sườn dốc, và cứ vài km lại bị chia cắt bởi các dòng suối song song nhau từ đông sang tây), không có đường sá, buộc hai bên bố trí lực lượng và di chuyển theo trục đông tây, giới hạn khả năng hỗ trợ tác chiến giữa các đơn vị với nhau. Quân Syria như vậy có thể di chuyển theo hướng bắc nam trên đỉnh cao nguyên, còn quân Israel có thể di chuyển theo hướng bắc - nam ở chân cao nguyên. Các sườn dốc đứng của cao nguyên Golan tạo thành một bức tường phòng thủ tự nhiên, và được Syria gia cố bằng mìn và các ụ súng chống tăng. Tuy nhiên quân Israel có lợi thế quan trọng là họ có được tin tức tình báo từ điệp viên của MossadEli Cohen (về sau ông bị bắt và bị xử bắn tại Syria năm 1965) về bố trí lực lượng của Syria.

Lực lượng quân đội Israel, vốn đã tấn công pháo binh Syria trong bốn ngày trước khi cuộc tấn công nổ ra, được lệnh tấn công tổng lực vào tất cả các vị trí của Syria. Trong khi các vị trí pháo binh được che chắn cẩn thận của Syria hầu như không bị thiệt hại, thì lực lượng bộ binh tại bình nguyên (6 trên tổng số 9 lữ đoàn) dần dần không thể tổ chức kháng cự được. Tối ngày 9 tháng 6, bốn lữ đoàn của Israel chọc thủng hàng phòng ngự tiến vào bình nguyên, nơi họ có thể được các đơn vị khác tiếp viện và thay thế.

Đây chiến dịch khó khăn nhất đối với Israel trong suốt cuộc chiến tranh sáu ngày. Lực lượng tăng thiết giáp của Quân đội Syria tỏ ra có chiến thuật tốt hơn nhiều so với quân Ai Cập, họ chỉ mất tổng cộng 73 chiếc xe tăng bao gồm T-34-85, T-54Panzer IV (bao gồm 33 xe bị phá hủy và 40 xe bị thu giữ), trong khi đó phía Israel bị mất tới 160 chiếc xe tăng các loại[2]. Tuy nhiên, chiến thắng của lực lượng xe tăng của Syria vẫn không thể đảo ngược được tình thế.

Ngày hôm sau, cụm trung tâm và phía bắc hợp binh trong một cuộc điều binh tạo thành gọng kìm bao vây, nhưng họ chủ yếu chỉ chiếm được những vùng đất trống rỗng, vì quân Syria đã rút đi. Một số đơn vị kết hợp với quân của tướng Elad Peled trèo lên Golan từ phía nam, nhưng thấy các vị trí cũng hầu hết bị bỏ hoang. Cùng ngày, các đơn vị Israel dừng lại sau khi đã chiếm được vùng đất dụng võ nằm giữa vị trí của họ và dãy núi lửa ở phía tây. Phía đông, địa hình bằng phẳng, sườn dốc thoai thoải xuống, tuyến này sau lệnh ngưng bắn trở thành "tuyến tím".

Tạp chí Time cho biết: "Để gây sức ép buộc Liên Hiệp Quốc áp đặt lệnh ngừng bắn, Đài phát thanh Damascus tự làm hại quân mình bằng cách loan báo thành phố Quneitra thất thủ 3 tiếng trước khi sự việc thực sự xảy ra. Thông báo hấp tấp này làm tiêu tan tinh thần binh lính Syria vẫn còn chiến đấu trên mặt trận Golan."[53] Ngày 10/6, Syria, thông qua Liên Hợp Quốc, chấp nhận một thỏa thuận ngừng bắn với Israel.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Sáu_Ngày http://archives.cnn.com/2002/WORLD/meast/04/14/me1... http://www.economist.com/countries/Israel/profile.... http://www.history.com/encyclopedia.do?vendorId=FW... http://www.historycentral.com/Israel/1967SixDayWar... http://encarta.msn.com/encnet/refpages/search.aspx... http://encarta.msn.com/encyclopedia_761570433/Six-... http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10/I... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,1... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.time.com/time/printout/0,8816,837237,00